Các kỳ Draft là nơi để cho các cầu thủ đầy tài năng có cơ hội lọt vào mắt xanh của 30 đội bóng tại NBA. Hai vòng draft, 60 lượt chọn tương ứng với 60 cầu thủ xuất xuất sắc nhất nắm lấy cơ hội bước vào đấu trường chuyên nghiệp, nhưng cũng để lại vô vàn sự tiếc nuối với những cầu thủ không được chọn, gọi chung là nhóm cầu thủ Undrafted.
Trong số hàng ngàn những cái tên ấy, có người sớm phiêu bạt ở các giải đấu trên thế giới. Có người chật vật tìm kiếm một chỗ đứng trong đội hình dự bị của các đội bóng tại NBA. Trên hết, cũng có không ít những cầu thủ, bằng những nỗ lực và sự kiên trì đáng kinh ngạc, đã vươn đến đỉnh cao của danh vọng. Ben Wallace chính là một cái tên điển hình cho cuộc hành trình đầy kì diệu ấy.
Có mặt trong kỳ Draft 1996, một năm đã đi vào lịch sử NBA với những cái tên huyền thoại như Allen Iverson, Stephon Marbury, Ray Allen, Peja Stojakovic, Steve Nash hay Kobe Bryant, thì Ben Wallace trở nên lạc lõng đáng kinh ngạc.
Những con số thống kê ấn tượng như trung bình 17 rebouds và 6,9 blocks/trận không đem lại nhiều ý nghĩa với những nhà tuyển trạch, khi cầu thủ cao 2m06 dành phần lớn thời gian đại học của mình ở NCAA Divison II, một giải đấu vốn không dành cho những người theo đuổi giấc mơ vào đấu trường chuyên nghiệp.
"Với lượt pick thứ 58 tại NBA Draft 1996 (*), Dallas Mavericks lựa chọn Darnell Robinson từ Đại học Arkansas", giọng nói của cố chủ tịch David Stern vang lên, kết thúc sự kiện tuyển chọn năm ấy. Ben Wallace lặng lẽ tắt chương trình TV, lên giường đi ngủ để chuẩn bị cho một ngày vốn bình thường như bao ngày khác.
Là người con thứ 10 trong 11 anh chị em, lớn lên ở một vùng nông thôn ở bang Alabama, Ben Wallace vốn không dành sự quan tâm cho bóng rổ ngay từ thuở ban đầu. Ông lựa chọn bóng bầu dục và thi đấu ở vị trung vệ phòng ngự (Linebacker).
Một cơ duyên bất ngờ đến với Ben Wallace năm 15 tuổi, khi ông được diện kiến Charles Oakley, một big-man nổi tiếng tại NBA vào thời điểm đó. Tình yêu với bóng rổ bắt đầu nảy sinh và Ben Wallace vẫn luôn duy trì thói quen thi đấu của mình, đặt nặng yếu tố phòng ngự, thể hình và sức mạnh cho lối chơi suốt quãng thời gian sau đó.
Sau khi không được lựa chọn ở NBA Draft 1996, Ben Wallace có cơ hội đến với trại tập huấn mùa hè của Boston Celtics. Có đến hơn một tá trung phong có mặt để thử việc, và không một ai có chiều cao thấp hơn Ben Wallace vào thời điểm ấy.
Ben Wallace là một "con quái vật" ở khu vực bảng rổ, cũng như là cơn ác mộng với bất kỳ trung phong nào ở NBA
Thế nhưng, bằng lối chơi phòng ngự dũng mãnh và không ngại va chạm, Ben Wallace đã thu hút sự chú ý của một số nhà truyển trạch vào thời điểm ấy. Ông được Washington Wizards đưa về thi đấu trong 3 mùa giải, trước khi cập bến Orlando Magic vào năm 1999. Tại đây, ông thi đấu trọn vẹn 82 trận xuất phát chính, ghi trung bình 4,8 điểm và 8,2 rebounds.
Màn trình diễn xuất sắc ấy đã giúp Ben Wallace trở thành một chốt chặn đáng tin cậy mà nhiều đội bóng có thể tin tưởng ở NBA. Tuy nhiên, thương vụ chuyển nhượng đến với Detroit Pistons vào năm 2000 mới là bước ngoặt thật sự, đưa tên tuổi của Ben Wallace đế với đỉnh cao.
Xuyên suốt 6 mùa giải tại đội bóng bang Michigan, Ben Wallace đã phát triển trở thành một "con quái vật" thật sự ở khu vực bảng rổ. Không có bộ kỹ năng tấn công, Ben Wallace đặt hết tâm huyết vào vai trò phòng ngự với thể hình ấn tượng và lối chơi không ngại va chạm.
Cùng với thế hệ Tayshaun Prince, Rip Hamilton, Rasheed Wallace và Chauncey Billups, Detroit Pistons ở mùa giải 2003-2004 chính là tập thể đã chặn đứng kỷ nguyên bất bại của Shaquille O'Neal và Kobe Bryant tại Los Angeles Lakers.
Ben Wallace cùng các đồng đội hủy diệt "siêu đội hình" Los Angeles Lakers tại NBA Finals 2004
Thậm chí, đội hình toàn sao của đội bóng Vàng - Tím còn có cả Karl Marlone và Gary Payton, nhưng đã thất bại trước Ben Wallace cùng các đồng đội tại NBA Finals với tỉ số 1-4. Ở Game 3, Detroit Pistons giới hạn Los Angeles Lakers ở mức 68 điểm trong 4 hiệp. Ben Wallace còn làm quá tốt nhiệm vụ trong lần đối mặt với trung phong xuất sắc nhất NBA trong nhiều thập kỷ là Shaquille O'Neal vào thời điểm ấy.
Sau khi bước lên đến đỉnh cao danh vọng, Ben Wallace thi đấu tiếp cho Detroit Pistons thêm 3 mùa giải, phiêu bạt đến Chicago Bulls và Cleveland Cavaliers trước khi trở về Detroit cho 3 năm cuối cùng trong sự nghiệp. Dù ở bất cứ đâu, ông luôn trở thành trung tâm của hàng phòng ngự, thi đấu hết sức mình để góp phần bảo vệ khu vực bảng rổ trước những cầu thủ tấn công hàng đầu của giải đấu.
Kể từ sau Dennis Rodman, NBA mới lại có thể chứng kiến một mẫu cầu thủ chuyên tâm vào phòng ngự điển hình như Ben Wallace. Ông kết thúc sự nghiệp 17 mùa giải với 4 danh hiệu "Cầu thủ phòng ngự của năm", một thành tích chỉ có huyền thoại Dikembe Mutombo có thể làm được.
Ben Wallace cũng là 1 trong 5 cầu thủ duy nhất ở NBA đứng đầu giải về số rebounds và blocks trong cùng 1 mùa, đồng thời là một trong những cầu thủ vô cùng đặc biệt khi có số rebounds (10.482) nhiều gần gấp rưỡi so với số điểm (6.254) mà ông ghi được suốt cả sự nghiệp của mình.
Với những thành tích kể trên, Ben Wallace hoàn toàn xứng đáng với một vị trí trong Hall of Fame của đấu trường NBA. Một chuyến hành trình không hề dễ dàng, từ một kẻ bị ruồng bỏ tại NBA Draft cho đến đỉnh vinh quang năm 2004, kết thúc với một chỗ đứng không thể phai nhạt trong lòng NHM.
"Giấc mơ của bạn sẽ tan vỡ, nếu bạn không chiến đấu hết mình vì điều đó. Đến lúc ấy, nó sẽ ám ảnh bạn cho đến suốt cuộc đời. Tôi bắt đầu từ một kẻ vô danh và kết thúc với tư cách là người chiến thắng. Nhiều người cho rằng, việc một cầu thủ cao 2m06 đối đầu với những gã khổng lồ 2m13 là một công việc khó nhằn nhất trên thế giới. Tuy nhiên, điều đó chẳng là gì so với cuộc hành trình mà tôi phải trải qua để đạt đến ngày hôm nay", Ben Wallace cho biết trong lễ vinh danh Hall of Fame 2021.
(*) NBA Draft 1996 chỉ có sự hiện diện của 29 đội bóng, trước khi Charlotte Bobcats được thành lập vào năm 2004, biến NBA trở thành giải đấu có 30 đội như thời điểm hiện tại.